1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh
Xác định “vô sinh” là
điều kiện đầu tiên để các cặp vợ chồng có thể được áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản này.
Theo khoản 1 Điều 93
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Trong
trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha,
mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này”.
Đối chiếu với quy định
tại Điều 88, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời
kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày
kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời
kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là
con chung của vợ chồng”.
Tuy nhiên, trường hợp con sinh ra trước ngày vợ, chồng đăng ký kết hôn và được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp con sinh ra bằng hỗ trợ kỹ thuật sinh sản vì còn đặt ra điều kiện xác định là vô sinh như đã nói ở trên.
Điều kiện thứ hai là phải trên nguyên tắc tự nguyện.
Theo khoản 3 điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: “Việc thụ tinh trong ống nghiệm, cho và nhận noãn, cho và nhận tinh
trùng, cho và nhận phôi, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện trên
nguyên tắc tự nguyện”.
Chỉ khi có sự tự nguyện
của cặp vợ chồng vô sinh thì mới được áp dụng việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản. Trên tinh thần tự nguyện, người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh được
xác định là mẹ đứa trẻ trong mọi trường hợp kể cả người mẹ là người nhận tinh
trùng, nhận noãn hay nhận phôi của người khác. Người chồng hợp pháp của người mẹ
đó cũng chính là cha đứa trẻ, ngay cả trường hợp người chồng không phải là người
cho tinh trùng.
2. Đối với phụ nữ độc thân
Theo quy định tại khoản 2 Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014: “Trong trường hợp người phụ nữ sống
độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của
con được sinh ra”.
Trong trường hợp này,
căn cứ để xác định cha, mẹ, con chỉ dựa vào sự tự nguyện và sự kiện sinh đẻ của
chính họ. Người phụ nữ độc thân có thể được nhận tinh trùng từ người khác và
còn được phép nhận phôi trong trường hơp họ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm
chất lượng để thụ thai.
Việc sinh con bằng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho
tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra: quy định này phù hợp
với nguyên tắc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là: “Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên
nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận” (Khoản 4, điều 3 Nghị định
số 10/2015/NĐ-CP).
Quý
khách có nhu cầu tư vấn và sử dụng dịch vụ xin vui lòng liên hệ theo thông tin
như sau:
Quý khách có nhu cầu tư vấn và
sử dụng dịch vụ xin vui lòng liên hệ theo thông tin như sau:
CÔNG TY LUẬT TNHH
VLEGAL ĐỒNG KHÁNH
Điện thoại: 0987247092 hoặc 0865698331
Email: dongkhanhlegal@gmail.com
Website: www.dongkhanhlegal.com