Nâng cao hiệu
suất làm việc là điều mà mọi doanh nghiệp đều mong muốn nhân viên thực hiện. Một
trong những cách thức được thực hiện nhiều nhất hiện nay tại các doanh nghiệp
là thực hiện tính tiền lương, tiền công theo năng suất làm việc (KPI), vậy việc
thực hiện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc sẽ được tính như thế nào? Công ty Luật
Vlegal Đồng Khánh xin tư vấn thực hiện như sau:
1. Căn cứ pháp lý
- Luật Bảo
hiểm xã hội 2014;
- Luật Lao động
2012;
- Thông tư
59/2015/TT – BLĐTBXH;
- Thông tư
47/2015/TT – BLĐTBXH.
2. Nội dung tư vấn
Đẩy nhanh
năng suất lao động làm tăng doanh số kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó là đòn
bẩy cho doanh nghiệp phát triển nhanh và mạnh mẽ. Chính bởi vậy việc thực hiện
trả lương theo năng suất lao động của nhân viên ngày càng được áp dụng rộng rãi
hơn và ngày càng đạt được những hiệu quả nhất định. Việc tính bảo hiểm xã hội
cho nhân viên làm việc theo năng suất công việc được quy định như sau:
2.1 Về
chỉ số KPI
KPI là thuật
ngữ tiếng Anh được viết tắt từ Key Performance Indicator, cụm từ này được hiểu
là chỉ số đo lường hiệu quả trong công việc. Nó là một hệ thống bao gồm các mục
tiêu tương ứng với các chức danh trong một tổ chức và chương trình hoạt động cụ
thể cho từng bộ phận, từng lĩnh vực và từng cá nhân.
Kèm theo đó
là hệ thống các chỉ tiêu đánh giá người giữ vị trí, chức năng để hoàn thiện mục
tiêu đề ra hay không. Khi mục tiêu được đặt ra được hoàn thành sẽ có hệ thống mức
thưởng, phạt tương ứng với hiệu suất của nhân viên thực hiện công việc, chức vụ
đó. Việc thực hiện hệ thống đánh giá hiệu quả công việc ở mỗi doanh nghiệp khác
nhau là khác nhau và có hệ thống riêng biệt, tuy nhiên vẫn có sự giao thoa, những
mục tiêu đánh giá tương đương đối với những ngành, nghề tương đương.
2.2
Chế độ lương tính theo KPI
Việc đánh
giá năng suất công việc để trả lương cho nhân viên là một trong những biện pháp
thông minh và linh hoạt trong thời kỳ kinh tế thị trường phát triển, đòi hỏi
tính cạnh tranh cao trong kinh doanh. Tuy nhiên việc thực hiện trả lương vẫn cần
thực hiện theo những tiêu chí nhất định theo quy định của pháp luật.
Điều 23 Bộ
Luật Lao động 2012 quy định một trong những nội dung chủ yếu và bắt buộc phải
có trong Hợp đồng lao động và mức lương và hình thức trả lương, thời hạn trả
lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác cho người lao động. Theo đó, các
văn bản pháp luật về bảo hiểm quy định cách xác định những căn cứ này như sau:
- Mức lương:
là số tiền chi trả cho người lao động theo công việc hoặc chức danh được ghi
trong thang lương, bảng lương do người lao động xây dựng theo quy định của pháp
luật mà hai bên đã thỏa thuận.
Đối với người
lao động hưởng lương theo sản phẩm hoặc lương khoán thì mức lương tính theo thời
gian để xác định đơn giá sản phẩm hoặc lương khoán.
Mức lương
không bao gồm phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác.
- Phụ cấp
lương: là các khoản phụ cấp để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, tính chất
phức tạp của công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức
lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động chưa được tính hoặc tính chưa đầy đủ.
- Các khoản
bổ sung khác: là các khoản bổ sung mà hai bên đã thỏa thuận, bao gồm các khoản
bổ sung xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng
lao động và trả thường xuyên trong mỗi kỳ trả lương.
Theo đó, các
khoản không tính làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bao gồm:
- Các khoản
bổ sung không xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong
hợp đồng lao động, trả thường xuyên hoặc không thường xuyên trong mỗi kỳ trả
lương gắn với quá trình làm việc, kết quả thực hiện công việc của người lao động.
- Các chế độ
và phúc lợi khác như: tiền thưởng theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật lao động,
tiền thưởng sáng kiến; tiền ăn giữa ca; các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại,
đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ; hỗ trợ khi người lao động có
thân nhân bị chết, người lao động có người thân kết hôn, sinh nhật của người
lao động, trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác thì ghi thành mục
riêng trong hợp đồng lao động theo Khoản 11 Điều 4 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP.
Như vậy việc
tính tiền đóng bảo hiểm xã hội vẫn căn cứ vào mức lương được thỏa thuận trong hợp
đồng. Đối với tiền được nhận từ hiệu quả công việc nếu không xác định được mức
cụ thể và không trả thường xuyên trong mỗi kỳ trả lương thì không thuộc khoản
phải đóng Bảo hiểm xã hội. Do vậy người lao động thực hiện công việc sẽ được
tính lương cao hơn.
Trên đây là
một số tư vấn về thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội cho doanh nghiệp trả lương
cho người lao động theo hiệu quả công việc. Để được tư vấn thêm về thực hiện chế
độ cũng như được tư vấn về thực hiện mức lương cho nhân viên cũng như người sử
dụng lao động, quý khách vui lòng liên hệ để được tư vấn tốt nhất./.