Ngày 03/4/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất đã được tặng cho từ người mẹ cho con và ban hành bản án số 120/2019/DS-PT. Đây không chỉ là một tình huống tranh chấp khá đặc biệt mà còn là một bài học kinh nghiệm trong cuộc sống.
Nội dung vụ việc được tóm lược như sau:
Theo ý kiến của phía nguyên đơn là bà Phạm Thị L: Vào năm 1994, bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho 03 thửa đất có tổng diện tích là 4270m2, thuộc xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. Phần đất này có nguồn gốc do ông bà để lại và một phần mua thêm diện tích cụ thể như thế nào thì bà L không nhớ rõ. Bà H (bị đơn) là con gái út của bà L và cùng sinh sống với bà từ nhỏ.
Vào ngày 12/01/2012, bà H cùng chồng là ông X có chở bà đến UBND xã T nói là để lăn tay làm sổ hộ nghèo nhưng không hiểu tại sao bà H lại có hợp đồng tặng cho với nội dung bà L cho bà H toàn bộ phần đất bà đang đứng tên. Do bà đã lớn tuổi nên toàn bộ huê lợi giao bà H thu hoạch, do bà H không đưa tiền cấp dưỡng cho bà L hai mẹ con cãi nhau nên bà L bỏ về nhà người em gái ở huyện Ba Tri sống.
Bà L bán đất nhưng không bán được do bà H đã đứng tên trong GCNQSDĐ. Từ đó đến nay bà L không khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà H mà bà chỉ khởi kiện ra Tòa án yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã ký vào ngày 12/01/2012 và yêu cầu bà H trả lại cho bà L giá trị của hai thửa đất số 123, 132 theo giá Hội đồng định giá đã định là 250.101.000 đồng.
Ý kiến của bị đơn là bà Phạm Thị Hồng H:
Nguồn gốc phần đất đang tranh chấp một phần do ông bà để lại và một phần mua thêm của ông Võ Văn Q diện tích là 900m2 và mua của ông Phạm Văn V một phần đất có giá 05 chỉ vàng diện tích bao nhiêu thì bà H không rõ, trước đây do bà L đứng tên.
Đến ngày 12/01/2012, bà L có làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho bà phần đất thuộc thửa số 123, 132 tờ bản đồ số 38 tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre có tổng diện tích là 4.080,1m2. Lúc đó bà và bà L cùng nhau đến ủy ban nhân dân xã T để ký tên vào hợp đồng tặng cho và có sự chứng kiến và chứng thực của Ủy ban nhân dân xã T.
Hiện tại bà H đang đứng tên trong GCNQSDĐ trên đó có căn nhà bà H đã xây trước khi bà L tranh chấp. Bà H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L.
Vào ngày 09/5/2011, bà L, bà H, ông X ký thục (cầm cố, thế chấp) 2.000m2 đất ruộng thuộc một phần thửa đất số 123 cho ông Phạm Văn T với giá 21 chỉ vàng đến nay vẫn chưa chuộc lại, hiện tại bà đang thuê lại phần đất đã thục cho ông T để tiếp tục canh tác. Đồng thời toàn bộ thửa 123 và thửa 132 bà H đang thế chấp để tại ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện G để vay tiền, giữa bà với ông T và ngân hàng sẽ tự thỏa thuận và không tranh chấp gì trong vụ án này.
Ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông X là chồng của bà Phạm Thị Hồng H: thống nhất ý kiến với bà H là không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L.
- Ông Phan Văn Thuộc trình bày: Vào năm 2011 bà L, bà H, ông X có ký tờ cam kết thục đất (cầm cố) cho ông phần đất có diện tích 2.000m2 đất ruộng thuộc một phần thửa đất số 123, tờ bản đồ số 38. Ông không tranh chấp gì với bà H và bà L trong vụ án này. Nếu sau này có tranh chấp gì ông sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
- Đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, chi nhánh huyện G - ông Võ Hoàng H trình bày: Ngày 21/02/2017, bà Phạm Thị Hồng H có vay vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện G số tiền 100.000.000 đồng. Trong quá trình tham gia tố tụng tại tòa Ngân hàng đồng ý cho bà H tiếp tục trả tiền theo thời gian thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, Ngân hàng không tranh chấp gì trong vụ án này, nếu sau này giữa Ngân hàng với bà H, bà L có tranh cấp Ngân hàng sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 137/2018/DS-ST ngày 06/11/2018, Tòa án nhân dân huyện G đã tuyên:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị L về việc yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được ký kết ngày 12/01/2018 giữa bên tặng cho bà Phạm Thị L với bên được tặng cho bà Phạm Thị Hồng H đối với phần đất thuộc các thửa 123, 132 cùng tờ bản đồ số 38 tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre và yêu cầu bà Phạm Thị Hồng H trả lại giá trị thửa đất số 123 và thửa 132 với số tiền 250.101.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn một trăm lẻ một đồng).
2. Chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc là 2.751.200 đồng, chi phí định giá là 600.000 đồng, chi phí trích sao hồ sơ quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 123.000 đồng, tổng cộng chi phí thu thập chứng cứ là 3.419.200 đồng. Trong đó bà H đã nộp và tự nguyện chịu là 55.000 đồng, còn lại 3.419.200 đồng bà L phải chịu và đã nộp đủ.
Quan điểm của kiểm sát viên:
Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về nội dung: Bà Phạm Thị L kháng cáo nhưng không có chứng cứ gì chứng minh nên không được chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm:
Hội đồng xét xử nhận định:
- Bà Phạm Thị L yêu cầu Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 12/01/2012 giữa bà Phạm Thị L với bà Phạm Thị Hồng H và yêu cầu bà H trả lại giá trị hai thửa đất theo Hội đồng định giá là 250.101.000 đồng vì bà L không ký hợp đồng tặng cho đất bà H bà L không tranh chấp tài sản và cây trồng trên đất nhưng tại tờ cam kết cho thục đất ruộng ngày 09/5/2011 do ông Phạm Văn T cung cấp có chữ ký của bên cho thục đất là bà L, bà H, ông X và người thục đất là ông T và ông T khẳng định chứng kiến bà L ký tên vào tờ cam kết thục đất này. Đồng thời tại biên bản hòa giải ngày 26/02/2014 của Tổ hòa giải Ấp T, xã T có ghi phần ý kiến của bà L “trước đây bà chuyển quyền sử dụng sổ đỏ cho bà H mẹ cho con nhưng hôm nay bà đòi lại đất”, Ngoài ra, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 12/01/2012 được chứng thực tại UBND xã T, huyện G, UBND xã T đã chứng thực bà L và bà H tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng. Việc bà L cho rằng bà không ký tên vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 12/01/2012 là không có cơ sở.
- Tuy nhiên tại thời điểm tặng cho trên đất tranh chấp có nhà mà bà L đang ở, bà H ông X cũng thừa nhận căn nhà là tài sản chung trong đó có bà L hơn nữa với việc tặng cho nầy thì bà L không còn đất nào khác, không có chổ ở hiện tại phải ở nhờ nhà người em.
Do đó chấp nhận một phần yêu cầu của bà L là hợp lý và hợp tình bà L yêu cầu trả giá trị theo biên bản định giá ngày 22/3/2016 có giá 250.101.000 đồng nên chấp nhận ½ là 125.050.500 đồng. Như phân tích nêu trên thì cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà L là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà L. Do đó chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà L sửa một phần bản án sơ thẩm là phù hợp.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bà L không phải chịu án phí phúc thẩm. Bà H phải chịu án phí dân sự có giá ngạch đối với số tiền phải trả cho bà L theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên, quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị L. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 137/2018/DS-ST ngày 06/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện G.
Cụ thể tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu bà Phạm Thị L về việc yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được ký kết ngày 12/01/2018 giữa bên tặng cho bà Phạm Thị L với bên được tặng cho bà Phạm Thị Hồng H đối với phần đất thuộc các thửa 123, 132 cùng tờ bản đồ số 38 tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Buộc bà Phạm Thị Hồng H trả lại ½ giá trị thửa đất số 123 và thửa 132 cho bà Phạm Thị L tính thành tiền là 125.050.500 đồng (Một trăm hai mươi lăm triệu không trăm năm mươi ngàn năm trăm đồng).
- Chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc là 2.751.200 đồng, chi phí định giá là 600.000 đồng, chi phí trích sao hồ sơ quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 123.000 đồng, tổng cộng chi phí thu thập chứng cứ là 3.419.200 đồng. Trong đó bà H đã nộp và tự nguyện chịu là 55.000 đồng, còn lại 3.419.200 đồng bà L, bà H mỗi người chịu ½ bà L đã nộp xong bà H có nghĩa vụ trả cho bà L 1.709.600 đồng (Một triệu bảy trăm lẻ chín ngàn sáu trăm đồng).
3. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị L được miễn.
Chi cục thi hành án huyện G hoàn lại cho bà Phạm Thị L số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.278.000 đồng (Bốn triệu hai trăm tám mươi bảy nghìn) đồng theo biên lai tạm ứng án phí, lệ phí số 0003372 ngày 06/9/2014 của Chi cục thi hành án huyện G.
- Án phí dân sự có giá ngạch bà Phạm Thị Hồng H phải chịu 6.252.525 đồng (Sáu triệu hai trăm năm mươi hai ngàn năm trăm hai mươi lăm đồng).
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị L không phải chịu.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nhận xét của luật sư:
Vụ án này là một tình huống khá đặc biệt trong các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Tranh chấp xảy ra giữa người mẹ và người con liên quan đến việc tặng cho tài sản từ mẹ cho con. Mặc dù việc tặng cho quyền sử dụng đất và cấp GCNQSDĐ cho bà H là hoàn toàn hợp pháp, tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bởi các lý do: Một là, trên diện tích đất tranh chấp có ngôi nhà do bà L sinh sống cùng gia đình bà H từ trước và là tài sản chung; Hai là, sau khi tặng cho đất bà L không còn đất nào khác, phải ở nhờ nhà người em. Mặc dù cơ sở pháp lý cho việc chấp nhận một phần kháng cáo của bà L là chưa thực sự rõ ràng nhưng đây vẫn được đánh giá là mộ bản án hợp tình, hợp lý, vận dụng linh hoạt quy định của pháp luật. Ở một khía cạnh khác, đây cũng là một bài học kinh nghiệm về cách ứng xử giữa cha mẹ (bên tặng cho) và con cái (bên nhận tặng cho) trong quan hệ tặng cho tài sản giữa cha mẹ và con cái vốn tương đối phổ biến trong xã hội chúng ta./.